Hoàng đế Đại Thanh Càn_Long

Chính sách đối nội

Tranh vẽ Càn Long lúc còn trẻ.

Càn Long là vị Hoàng đế rất chuyên tâm đến triều chính, đã xóa bỏ chế độ chính trị hà khắc của Ung Chính, thay vào đó là chính sách khoan dung độ lượng. Ông giải phóng tất cả những người trong tông thất bị cầm tù, những người chú, bác bị bức hại mà chết đều được ghi trong ngọc điệp, phong anh em mình làm Thân vương; thời Ung Chính bắt bớ giam cầm những văn sĩ vô tội, gia tộc của họ bị đày tới biên giới làm nô lệ, nay đều được ông trả về quê cũ. Từ khi cơ cấu quyền lực tối cao chỉ sau Hoàng đế là Quân cơ xứ được thành lập, hàng ngày Càn Long đều đích thân tới Quân cơ xứ để xử lý việc triều chính. Sáng đi sớm tối về muộn, buổi tối cũng thường xuyên triệu kiến các Quân cơ đại thần, chính vì vậy mà từ thời ông, Quân cơ xứ dần dần hình thành nên chế độ trực đêm, sau này sợ một người không xử lý nổi, nên vào mỗi sáng sớm còn có một người tới giúp đỡ. Bên cạnh đó, Càn Long cũng quản lý rất nghiêm khắc hoạn quan và ngoại thích, trước hết là cấm hoạn quan học hành, xóa bỏ Nội thư đường vốn là nơi đọc sách, học chữ của hoạn quan; tiếp đến phàm những hoạn quan là sai tấu sự thì đều đổi họ là Vương, như vậy sẽ khiến các quan bên ngoài khó mà phân biệt được, từ đó tránh để họ câu kết với nhau.

Về mặt phát triển xã hội, Càn Long chủ yếu kế thừa chế độ kinh tế và chính trị của Khang Hi và Ung Chính, đặc biệt là thực thi triệt để các chính sách như "cải thổ quy lưu", "than định nhập mẫu" và "hỏa hao quy công". Những chính sách này đã đưa triều Thanh lên đỉnh cao của sự phát triển. Đất nước dưới thời Càn Long bắt đầu bước vào giai đoạn cực thịnh.

Các cuộc chiến tranh biên giới

Một người lính từ thời Càn Long, được vẽ bởi họa sĩ William Alexander, 1793

Càn Long được đánh giá là một nhà quân sự tài ba. Ngay sau khi lên ngôi, ông đã cho quân đàn áp cuộc khởi nghĩa của người Miêu vào năm 1735-1736. Những chiến dịch sau đó của ông đã làm mở rộng đáng kể lãnh thổ Nhà Thanh. Sự thành công này một phần cậy nhờ vào sức mạnh quân sự, phần còn lại là sự chia rẽ và ngày một suy yếu của những dân tộc Nội Á.

Dưới thời Càn Long, Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ đặt dưới sự cai trị của Nhà Thanh; sau đó nó đã đổi tên thành Tân Cương; trong khi đó, ở phía Tây, vùng Nội Mông là một đơn vị đồn trú của quân đội Nhà Thanh. Sự sáp nhập Tân Cương vào trong lãnh thổ Nhà Thanh là kết quả của các chiến thắng quân sự và sự sụp đổ của Hãn Quốc Chuẩn Cát Nhĩ, một liên minh giữa các bộ tộc Tây Mông Cổ. Theo học giả Ngụy Viên (đời Nhà Thanh), 40% trong tổng số 600,000 người Chuẩn Cát Nhĩ đã chết do bệnh đậu mùa, 20% phải di dân đến các khu vực của tộc người Nga, người Kazakh, 30% bị quân đội nhà Thanh tiêu diệt.[10] Còn sử gia Peter Perdue cho rằng sự suy giảm dân số của người Chuẩn Cát Nhĩ là kết quả của chính sách diệt chủng triệt để của Càn Long.[11]

Cuộc diệt chủng của hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ đã được so sánh với chiến dịch Thập toàn Võ công vào năm 1776, cũng xảy ra trong thời của Càn Long. Khi quân chiến thắng trở về Bắc Kinh, một bài thánh ca được hát để tôn vinh họ. Một phiên bản tiếng Mãn Châu của bài thánh ca được ghi lại bởi Dòng Tên Amoit và gửi đến Paris. Nhà Thanh đã thuê Triệu Dực và Jiang Yongzhi tại Sở Lưu trữ Quân sự, với tư cách là thành viên của Hàn Lâm Viện, để biên soạn các tác phẩm về chiến dịch này, như Chiến lược bình định Chuẩn Cát Nhĩ (Pingding Zhunge'er fanglue). Những bài thơ tôn vinh cuộc chinh phục nhà Thanh được viết bởi Triệu Dực, người đã viết phong cách Yanpu trong "phong cách ghi chép", nơi mà các khoản chi tiêu quân sự của triều đại Càn Long được ghi lại. Càn Long đã được ca ngợi là nguồn gốc của "Hòa bình và thịnh vượng của thế kỷ 18" theo mô tả của Triệu Dực. Các phiến quân Khalkha của Mông Cổ dưới trướng hoàng tử Chingünjav đã lập mưu cùng với khả hãn Chuẩn Cát Nhĩ Amursana và lãnh đạo một cuộc nổi dậy chống lại đế quốc Thanh cùng thời với Chuẩn Cát Nhĩ. Quân đội nhà Thanh đã đàn áp cuộc nổi dậy và hành quyết Chingünjav cũng như cả gia đình ông ta.

Suốt thời gian này đã tiếp tục diễn ra sự can thiệp của người Mông Cổ vào Tây Tạng; ở chiều ngược lại đó là sự thâm nhập của Phật giáo Tây Tạng vào Mông Cổ. Sau cuộc bạo loạn ở Llasa vào năm 1750, Càn Long đã trao quyền trị vì Tây Tạng cho Đà Lai Lạt Ma nhưng song song đó, lại đặt nó dưới sự giám sát của các quan Đại thần và quân đội Nhà Thanh đồn trú tại đây nhằm bảo vệ chủ quyền của Trung Hoa. Ở những mặt trận xa hơn, ông đã thu phục được người Nepal, người Gukhas. Năm 1791, Gurkha (nay là Nepal) xâm chiếm Tây Tạng. Chúng đi tới đâu là cướp của giết người tới đó, khiến nhân dân Tây Tạng lâm vào cảnh đau thương, khốn đốn. Càn Long lập tức phái Phúc Khang An và Hải Lan Sát dẫn quân đến nghênh chiến. Quân Thanh nhanh chóng đánh đuổi được quân Gurkha ra khỏi Tây Tạng. Quân Gurkha phái sứ giả tới cầu hòa, cam kết sẽ không bao giờ xâm phạm Tây Tạng nữa, và trả lại số vàng bạc châu báu cướp được, Càn Long đã chấp nhận điều kiện ngừng chiến này của Gurkha. Sau việc này, Càn Long cảm thấy chính phủ Tây Tạng đã quá thối nát, không thể chống đỡ nổi sự tấn công của quân xâm lược, vậy nên đã phái Phúc Khang An soạn thảo điều lệ giải quyết vấn đề nan giải của Tây Tạng, đây chính là "Khâm định Tây Tạng chương trình" nổi tiếng trong lịch sử.

Bộ quân phục của Càn Long ở bảo tàng Musée de l'Armée, ParisTranh vẽ Càn Long những năm đầu trị vì.

Ngoài ra, Càn Long cũng đã có âm mưu thôn tính Burma nhưng cuối cùng đã thất bại hoàn toàn trong cuộc chiến tranh Thanh-Miến. Ban đầu ông tin rằng sẽ giành được chiến thắng dễ dàng, và chỉ gửi quân đội ở tỉnh Vân Nam, giáp biên giới Miến Điện. Cuộc xâm lược của nhà Thanh bắt đầu khi phần lớn lực lượng Miến Điện được triển khai trong cuộc xâm lược mới nhất của họ đối với Vương quốc Ayutthaya của Xiêm. Tuy nhiên, quân đội Miến Điện đã đánh bại hai cuộc xâm lược đầu tiên vào năm 1765–66 và 1766–67 tại khu vực biên giới. Cuộc xung đột khu vực hiện đang leo thang đến một cuộc chiến tranh lớn liên quan đến diễn tập quân sự trên toàn quốc ở cả hai quốc gia. Cuộc xâm lược thứ ba (1767–1768) do quân Bát Kỳ tinh nhuệ thực hiện gần như thành công khi đã tiến sâu vào địa phận Miến Điện trong vòng vài ngày diễu hành từ kinh đô nước này, Inwa. Tuy nhiên, lực lượng từ miền Bắc Trung Quốc này lại không thể thích nghi nổi với khí hậu nhiệt đới không quen thuộc và các bệnh dịch đặc hữu gây chết người", và phải rút quân về nước với những tổn thất nặng nề. Sau cuộc gọi cận kề, Vua Hsinbyushin đã tái bố trí quân đội của mình từ Xiêm sang đối phó với Trung Quốc. Cuộc xâm lược thứ tư và lớn nhất đã bị sa lầy ở biên giới. Khi lực lượng nhà Thanh bị bao vây hoàn toàn, một thỏa thuận ngừng bắn đã được thực hiện giữa các chỉ huy chiến trường của hai bên vào tháng 12 năm 1769. Lực lượng nhà Thanh giữ một đội hình quân sự hạng nặng ở khu vực biên giới Vân Nam trong khoảng một thập kỷ để cố gắng tiến hành một cuộc chiến khác trong khi áp đặt lệnh cấm buôn bán liên biên giới trong hai thập kỷ. Khi Miến Điện và Trung Quốc nối lại mối quan hệ ngoại giao vào năm 1790, chính quyền nhà Thanh đã đơn phương xem hành động này là sự phục tùng của Miến Điện, và tuyên bố chiến thắng.

Mặc dù thất bại ở miền Nam, tổng thể cuộc mở rộng quân sự của Hoàng đế Càn Long đã tăng gần gấp đôi diện tích của Đế chế nhà Thanh rộng lớn, và đưa vào lãnh thổ nhiều dân tộc không thuộc Hán tộc như người Duy Ngô Nhĩ, người Kazakhs, người Kyrgyzs, người Evenksngười Mông Cổ - những bộ tộc thù địch với triều đình. Đây cũng là một chiến dịch quân sự rất hao tiền; số tiền trong Kho bạc Hoàng gia hầu như được đưa vào các cuộc viễn chinh quân sự. Mặc dù hầu hết các cuộc chiến tranh đã thành công, quân Thanh không quá áp đảo như vậy. Quân đội nhà Thanh đã bị thiệt hại đáng kể và gặp khó khăn khi đối mặt với một số kẻ thù bị đánh giá yếu hơn nhiều: chiến dịch chống lại Thập toàn Võ công mất 2–3 năm - lúc đầu quân đội nhà Thanh liên tục thua trận, mặc dù Nhạc Chung Kỳ (hậu duệ của Nhạc Phi) sau đó nắm quyền kiểm soát tình hình. Cuộc chiến với hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ đã nhiều lần diễn ra với cục diện giằng co, và gây ra thiệt hại nặng nề ở cả hai bên.

Vào giai đoạn cuối cuộc chiến tranh biên giới, quân đội nhà Thanh đã bắt đầu suy yếu đáng kể. Ngoài một hệ thống quân sự khoan dung hơn, các lãnh chúa trở nên hài lòng với lối sống của họ. Vì hầu hết các cuộc chiến đã diễn ra, các lãnh chúa không còn thấy bất kỳ lý do gì để huấn luyện quân đội của họ, dẫn đến một sự suy giảm quân sự nhanh chóng vào cuối triều đại của Hoàng đế Càn Long. Đây là lý do chính cho sự thất bại của quân đội nhà Thanh để ngăn chặn cuộc khởi nghĩa Bạch Liên giáo, bắt đầu vào cuối triều đại của Càn Long và mở rộng vào thời của Gia Khánh.

Điều quân sang nước Đại Việt

Một bức tranh mô tả Càn Long khi đi săn.

Những năm cuối thế kỷ XVIII, nước Đại Việt xảy ra xung đột giữa nhà Hậu Lê với nhà Tây Sơn. Tháng 5 năm 1788, vua Lê Chiêu Thống cùng các bầy tôi sang Long Châu cầu viện nhà Thanh phát binh đánh nhà Tây Sơn. Tháng 7 năm 1788, Lê Chiêu Thống ở Kinh Bắc cũng sai người sang Trung Quốc cầu cứu. Càn Long thấy vậy bèn phát binh đánh Đại Việt. Cuối năm 1788, Càn Long sai Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị chỉ huy hơn 29 vạn quân, huy động từ Lưỡng Quảng, Vân NamQuý Châu[12] hộ tống Lê Chiêu Thống về Đại Việt với danh nghĩa phù diệt Tây Sơn, và phong cho Lê Chiêu Thống là An Nam Quốc vương để vào chiếm đóng Thăng Long (Hà Nội). Quân đội nhà Thanh nhanh chóng áp đảo và dễ dàng chiếm kinh thành Thăng Long, buộc hai tướng Ngô Văn SởNgô Thì Nhậm phải rút quân vào Phú Xuân báo cho tướng nhà Tây Sơn là Bắc Bình vương Nguyễn Huệ.

Nghe tin báo, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22 tháng 12 năm 1788), Nguyễn Huệ của Tây Sơn lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung và xuất quân tiến ra Bắc đánh quân Thanh. Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân (26 tháng 12 năm 1788), đại quân của hoàng đế Quang Trung tới Nghệ An, dừng quân tại đó hơn 10 ngày để tuyển quân và củng cố lực lượng, nâng quân số lên 10 vạn, tổ chức thành 5 đạo quân: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân. Ngoài ra còn có một đội tượng binh với hơn 100 voi chiến. Vua Quang Trung còn tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để khích lệ ý chí quyết chiến, quyết thắng của tướng sĩ đối với quân xâm lược Mãn Thanh. Ngay sau lễ duyệt binh, Quang Trung tiến quân ra Bắc Hà.

Ngày 20 tháng 12 năm Mậu Thân (15 tháng 1 năm 1789), đại quân của Quang Trung đã ra đến Tam Điệp, Ninh Bình. Khi đó, quân sĩ được lệnh ăn Tết trước. Và sau đó, Quang Trung ra lệnh cho quân sĩ chia thành 5 đạo quân để tiến ra Thăng Long. Sau khi thăm dò tình hình (bằng cách viết thư cho Tôn Sĩ Nghị giả vờ đầu hàng), vua Quang Trung thông báo chỉ trong 10 ngày là quét sạch quân Mãn Thanh.

Sớm hơn cả dự kiến, trong vòng 6 ngày kể từ đêm 30 Tết âm lịch, quân Tây Sơn đã đánh tan 29 vạn quân Mãn Thanh mà trận Ngọc Hồi - Đống Đa là tiêu biểu. Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết..., thây ngổn ngang đầy đồng, máu chảy thành suối. Quân Thanh đại bại (Hoàng Lê nhất thống chí). Trưa mồng 5 Tết Kỷ Dậu - 1789, quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long.

Trưa mồng 5 Tết Kỷ Dậu - 1789, quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị và Lê Chiêu Thống sợ hãi dẫn đám tàn quân vượt sông Hồng chạy thoát về Trung Quốc. Quang Trung tuy đánh bại quân Thanh, nhưng biết Đại Thanh là nước lớn, vả lại còn đang phải chống lại thế lực Nguyễn Ánh ở miền Nam Đại Việt, nên quyết định xưng thần với nhà Thanh. Về phía Đại Thanh, Càn Long biết Đại Việt khó đánh, mà đánh được cũng khó giữ, nên chấp nhận sự giảng hòa của Quang Trung. Càn Long vẫn giữ nhóm vua tôi Lê Chiêu Thống trên đất Trung Quốc nhưng phớt lờ tất cả mọi nỗ lực của họ khi đòi người Thanh tiếp tục đưa quân sang đánh báo thù Tây Sơn.

Bản sắc chính trị Trung Quốc và chính sách biên cương

Hoàng đế Càn Long và những người tiền nhiệm của ông, kể từ Hoàng đế Thuận Trị, đã xác định Trung Quốc và Đế quốc Thanh là như nhau, và trong các hiệp ước và các tài liệu ngoại giao, Đế quốc Thanh gọi đó là "Trung Quốc". Hoàng đế Càn Long đã bác bỏ những ý kiến ​​trước đó rằng chỉ người Hán mới có thể là người Trung Quốc và chỉ có đất Hán mới có thể được coi là một phần của Trung Quốc, vì vậy ông đã định nghĩa lại Trung Quốc là đa sắc tộc, nói rằng vào năm 1755, "tồn tại quan điểm về Trung Quốc (zhongxia), theo mà những người không phải người Hán không thể trở thành chủ thể của Trung Quốc và đất đai của họ không thể hòa nhập vào lãnh thổ Trung Quốc. Điều này không thể hiện sự hiểu biết về triều đại của chúng ta về Trung Quốc, mà thay vào đó là các triều đại Hán, Đường, Tống và Minh trước đó. "

Hoàng đế Càn Long bác bỏ quan điểm của các quan chức Hán, người nói rằng Tân Cương không phải là một phần của Trung Quốc và ông không nên chinh phục nó, đưa ra quan điểm rằng Trung Quốc là đa sắc tộc và không chỉ đề cập đến người Hán. Hoàng đế Càn Long đã so sánh thành tích của mình với thành tích của nhà Hánnhà Đường khi viễn chinh vào Trung Á.

Quan hệ với phương Tây

Đối mặt với thực dân phương Tây liên tục dòm ngó, Càn Long đã chọn thái độ cứng rắn, từ chối thẳng thừng những yêu cầu vô lý của họ. Cùng với đó, ông chọn thái độ hữu hảo với những nước có thành ý với Trung Quốc, tuy nhiên vẫn dứt khoát từ chối đề xuất thông thương của họ. Quan điểm của ông là, tiếp tục duy trì chính sách bế quan tỏa cảng của quốc gia, cũng chính vì vậy mà đã khiến khoa học kỹ thuật của Trung Quốc tụt hậu khá xa so với châu Âu.